Toyota Camry là loại xe gia đình cỡ lớn, được sản xuất bởi Toyota tại
các nước Mỹ (Georgetown, Kentucky), Úc và Nhật. Tại Mỹ thì Camry là đối
thủ cạnh tranh trực tiếp với Honda Accord, và dưới cơ một chút có thể
kể Nissan Maxima và Ford Taurus. Vài năm gần đây, có một dòng Camry lên
đời khác được bán tại Nhật, và chúng được xuất khẩu dưới tên gọi Lexus
ES250, ES300 và ES330.
Tên Camry được giới thiệu đầu tiên vào năm 1980 trên chiếc Toyota
Celica Camry, còn cái tên Camry riêng biệt được đưa ra vào năm 1982 dành
cho model 1983. Chiếc Camry chủ yếu được sản xuất dưới dạng xe sedan 4
cửa, nhưng đôi khi cũng có mẫu hatchback 5 cửa, wagon thùng dài và thể
thao 2 cửa. Một phân nhánh của Camry là chiếc Camry Solara, được bán
dưới hai mẫu: 2 cửa và mui xếp.

Lexus ES300 1996 là đời cuối cùng, nó bắt đầu thay thế ES250 vào năm 1992
Khác với chiếc Celica Camry nguyên thủy, Toyota Camry luôn được thiết
kế là loại xe máy trước, nghĩa là động cơ truyền lực để dẫn động bánh
trước. Tuy nhiên cũng có một số model thuộc loại dẫn động 2 cầu (AWD).

Từ năm 2000, hãng Daihatsu bán ra chiếc Altis được coi như anh em sinh đôi với Camry.
Camry Wagon 2001
Thị trường

Tại ba thị trường bán ra chính thức là Úc, Nhật và Bắc Mỹ, chiếc
Camry được tính vào dòng sedan cận cao cấp (sub-luxury), đứng sau chiếc
Toyota Avalon và Lexus ES330. Thông thường thì Camry không thể thêm
trang thiết bị để qua mặt Avalon hoặc ES330, nhưng một chiếc Corolla thì
lại có thể trang bị thêm tận răng để vượt qua Camry loại chuẩn.
Toyota Avalon
Tại Châu Âu thì Camry ít được bán, nhưng chiếc Avensis nhỏ hơn (sản
xuất tại UK) thì rất phổ thông. Camry bị coi là nhạt nhẽo và ít được ưa
chuộng tại đây, đặc biệt là khi Toyota tự cho mình là đối thủ của BMW
5-series thì người ta càng không thấy có điểm gì nổi trội. Sự vắng mặt
của mẫu wagon thùng dài trong thế hệ thứ năm tại những thị trường như
New Zealand có nghĩa là Camry sedan và Avensis wagon được bán ra song
song. Tại thị trường này thì chiếc Avensis Verso đã bị thất bại.
Tính đến năm 2004, Camry đã được sản xuất tại các nhà máy của Toyota
tại Úc, Philippines, Thái, Mỹ và Việt Nam. Nó cũng được làm tại các nhà
máy không thuộc Toyota tại Malaysia và Taiwan.
Cạnh tranh hiện thời
Đối thủ truyền kiếp của Camry là Honda Accord thì luôn được xem như
có dáng thể thao hơn và luôn nhỉnh hơn về một số trang thiết bị. Thống
kê tại Bắc Mỹ về Accord và Camry cho thấy doanh số hai chiếc này thường
bằng nhau. Nó cho thấy con số đông các đối tượng mà Camry nhắm đến thì
không cần quan tâm đến hiệu suất vận hành cho lắm. Những so sánh mới đây
nhất đã đẩy Camry đối mặt với các đối thủ như Nissan Altima, Mitsubishi
Galant, Mazda 6 và Chevrolet Malibu. Mặc dù Camry không luôn luôn là kẻ
chiến thắng rõ ràng, nhưng nó vẫn là một con gà cứng cựa.
Các thế hệ Camry
Cũng có vài tranh cải về cách đặt thế hệ của Camry theo từng thời kỳ.
Hầu hết các nguồn đều ghi thế hệ thứ nhất của Camry bắt đầu năm 1983,
một số ít thì nói là 1980 bằng đời của chiếc Toyota Celica Camry. Tài
liệu sau đây căn cứ vào cá ý kiến thuộc đa số.
Toyota Celica Camry (1980–1982)
Toyota Celica Camry lần đầu tiên được giới thiệu năm 1980 cho thị
trường nội địa Nhật. Xe mang hơi hướm của mẫu Carina và phần đầu của
Celica.
Thế hệ I (1982–1986)
Camry 1985

Camry chỉ có loại động cơ 4 máy thẳng hàng 2.0 lít, 92hp nhưng chia ra 2 loại hộp số: 5 số tay và 4 số tự động. Đối lập với chiếc Celica Camry dẫn động cầu sau, Toyota Camry là xe dẫn động cầu trước.
Thiết kế của Camry thế hệ I phù hợp với khuynh hướng dạng hộp của
những năm đầu 1980. Kích thước và trang bị của xe là những đặc trưng của
xe Nhật vào thời đó, xe rẻ tiền, nhỏ nhắn nhưng cứng cáp và cạnh tranh
trực tiếp với các đối thủ to lớn của Mỹ.
Thế hệ II (1986–1991)
Camry 1988
Thế hệ thứ hai giới thiệu vào nam 1986, có thêm mẫu wagon nhưng lại
bỏ đi mẫu hatchback. Nó vẫn được coi là xe hạng trung vào lúc này. Vào
năm 1988, lần đầu tiên có thêm mẫu dẫn động 2 cầu (All-Trac) động cơ V6
2.5L, 153hp. Động cơ V6 này có tính năng trục cam đôi trên nắp máy
(DOHC), gần giống như loại 4 xy-lanh 115hp.
Năm 1991, hệ thống chống bó phanh (ABS) xuất hiện trên các mẫu V6, LE và wagon.

Vào năm 1991, hệ thống chống bó phanh (ABS) được trang bị cho các mẫu V6, LE và wagon.
Camry Thế hệ II thì đặc biệt rất là phổ thông tại Mỹ và ta có thể thấy chúng trên mọi nẻo đường.
Thế hệ III (1991–1996)
Camry 1992
Camry Thế hệ III được bán tại Nhật năm 1990 và ở Mỹ thuộc vào đời
1992. Nó được coi như là mẫu đầu tiên Toyota để tham gia vào dòng sedan
loại lớn, loại mà Toyota gọi là “world-sized”. Đây là cột mốc đánh dấu
sự chuyển tiếp của Camry từ một loại xe 4 cửa rẻ tiền lên loại sedan lớn
hơn và sang hơn.

Tại Mỹ, hộp số tự động trở nên lựa chọn duy nhất cho tất cả các
model, nhưng vẫn có bán loại thể thao 5 số tay của Camry chuẩn đời
trước. Cả hai loại động cơ 4 máy và 6 máy đều được nâng cấp về dung tích
và mã lực: loại 4 máy 2.2L và 130hp, loại V6 3.0L và 185hp. Ngoài dòng
DX (còn gọi là Delux) và LE, đời 1992 còn có thêm dòng cao cấp XLE và
dòng thể thao SE, mà được cho là để cạnh tranh với chiếc Nissan Maxima
SE.
Vào năm 1944, Toyota giới thiệu mẫu Camry 2 cửa với kiểu dáng giống
như loại 4 cửa. Mẫu này bị loại bỏ trong thế hệ kế tiếp, nhưng sau đó
lại được thay thế bởi Camry Solara.
Cùng năm đó, tại thị trường nội địa Nhật có hai mẫu mới (ngang
1.700mm) của Camry và Vista, với cùng một khung gầm nhưng thân vỏ khác
nhau..
Camry Thế hệ III được nằm trong bảng “10 xe tốt nhất” của tạp chí Car and Driver trong các năm 1992 và 1993.
Thế hệ IV (1996–2001)

Chiếc Lexus ES300 lại một lần nữa xài chung khung gầm với Camry.
Năm 1999 xuất hiện mẫu Camry Solara loại 2 cửa loại và mui xếp. Khác
với loại Camry 2 cửa Thế hệ II, Camry Solara lần này bắt đầu bằng mẫu 4
cửa.
Camry Solara 1999
Đời 1988 tại Mỹ, dòng SE thể thao cũ bị loại bỏ, còn dòng chuẩn đổi
thành Camry CE. Cả hai dòng LE và XLE vẫn được tiếp nối. Mẫu Solara thì
có hai loại SE và SLE, để tương ứng với LE và XLE của dòng sedan. Loại
XLE thì có động cơ 4 máy và V6, trong khi Solara SLE thì chỉ có máy V6.
Mã lực được nâng lên chút đỉnh, loại 4 máy 5S-FE 2.2L là 133hp và
loại V6 1MZ-FE là 194hp. Hộp số tay chỉ còn gắn cho dòng CE và các model
Solara.
Chiếc Camry đầu tiên được bán ra dưới tên Daihatsu. Đó là chiếc Diahatsu Altis, cũng được coi là một loại Camry xuất khẩu.
Camry V6 lại được nằm trong bảng “10 xe tốt nhất” năm 1997 của tạp chí Car and Driver.
Camry V6 lại được nằm trong bảng “10 xe tốt nhất” năm 1997 của tạp chí Car and Driver.
Thế hệ V (2001–đến nay)


Tháng 9-2001, giới thiệu chiếc Camry mới nhất trong dòng sedan cỡ
lớn, nhưng lần này không có mẫu wagon. Mẫu này được bán tại hầu hết các
thị trường xuất khẩu và tại Mỹ là đời 2002.
Kiểu dáng Camry Thế hệ V cũng hao hao Thế hệ IV. Ca-pô trước hơi ngắn
lại làm cho khoang hành khách rộng thêm ra, đó là một trong những kỹ
thuật thiết kế của các xe loại nhỏ. So với Thế hệ trước thì nó cao hơn
63mm và chiều dài cơ sở dài hơn 50mm.

Tại Úc thì đời 2002 phân ra 5 loại khác nhau: Altise, Ateva,
Sportivo, Azura và Grand. Ba model đầu thì đều có động cơ hoặc 4 máy
hoặc V6. Hai model sau chỉ gắn động cơ V6. Chiếc Camry Sportivo thì
giống y hệt như Camry SE tại Mỹ.
Có một chút thay đổi về phần mỹ thuật cho đời 2004 trên toàn thế giới.
Có một chút thay đổi về phần mỹ thuật cho đời 2004 trên toàn thế giới.
Daihatsu tiếp tục sản xuất người anh em sinh đôi Altis chỉ cho thị trường Nhật.
Theo kế hoạch, Toyota sẽ sản xuất Camry Hybrid (động cơ đôi xăng-điện) trong năm 2006
nguồn Answers.com